Thiên Chúa, tình yêu và sex trong bài ca Hallelujah của Leonard Cohen


Tại phương Tây, có một bài ca rất được giới trẻ yêu chuộng, đặc biệt vào mùa Giáng sinh. 
Thoạt nghe, tưởng lầm là một bài Thánh ca, vì cái tên của nó là Hallelujah. Tác phẩm này do Leonard Cohen soạn nhạc và lời. Hallelujah có nghĩa là “Tạ ơn Thiên chúa”.
Tuy nhiên, đằng sau nhiều hình tượng thánh thiện, đây là tiếng kêu não nùng của con người trần tục gọi Thiên chúa, nhưng Ngài vắng mặt, và hoài niệm tình yêu này chỉ còn là đổ vỡ. 
Nghe kỹ bài Halleluyah, thính giả sẽ khám phá, bài ca này kể về lòng ham muốn, nỗi đam mê nhục dục, 
bước sa cơ và mất mát trong thân phận bèo bọt một con người khao khát điều Vĩnh Hằng.
Hallelujah trong tiếng Do thái có nghĩa là “Rạng danh Thiên chúa. Người Do thái thốt lên câu Hallelujah để tỏ lòng biết ơn Thiên chúa.

Bài ca này có 5 đoạn, trong phiên bản Jeff Buckley.
Nghe kể rằng 
có một hợp âm bí mật
Mà David đã chơi
và hài lòng Thiên Chúa
Nhưng em đâu thiết gì
đến âm nhạc, phải không?
Này nhé, nó như vậy:
Quãng tư, quãng năm
Điệu thứ trầm,
điệu trưởng vút cao
Vì vua thất sủng soạn bài
Hallelujah…

David là nhân vật trong Kinh thánh. Một số nhà khảo cổ khẳng định đây là nhân vật lịch sử, nhưng quan trọng hơn cả đối với đông đảo người phương Tây, David là biểu tượng của một vị anh hùng, bởi vì theo Kinh thánh, David đã chiến thắng tên khổng lồ Goliath. Văn võ song toàn, David vừa là một chiến sĩ, vừa là nhà thơ và nhạc sĩ. Do đó hình tượng David thường được biểu hiện trong tranh với một chàng thanh niên ôm chiếc hạc cầm.

Trước khi lên làm vua, David phục tùng Vua Saül và cưới công chúa Mikhal, Khi uy danh của David ngày càng được thiên hạ tán tụng. Vua Saül đem lòng ghen ghét con rể của mình và sai người thủ tiêu David. Nhờ vào Jonathan, David đã thoát nạn. Do đó, trong bản Hallelujah của Leonard Cohen,  David được gọi là vị vua bị thất sủng và trong cơn thử thách, David đã soạn bài Halleluyah.

Đoạn thứ hai như sau :
Lòng tin của người mạnh mẽ nhưng người vẫn cứ cần bằng chứng
Người nhìn thấy nàng tắm
trên mái hiên
Sắc đẹp của nàng và
ánh trăng đã làm người gục ngã
Nàng trói người
Vào chiếc ghế trong căn bếp
Nàng đập vỡ ngai vàng của người
Nàng cắt tóc người
Và từ đôi môi người
nàng giành lấy câu Hallelujah
Hallelujah … 

Hình ảnh “Người đã nhìn thấy nàng tắm trên mái hiên” cũng liên quan đến David. Vì vua, một đêm nhìn trộm Bathsheba đang tắm. Say mê trước sắc đẹp của Bathsheba,  David chiếm đoạt nàng và sai người hạ sát chồng của Bathsheba. Vì tội này David phải chịu sự trừng phạt của Chúa.

Kế đến câu: 
“Nàng đập vỡ ngai vàng của người, nàng cắt tóc người” 
đề cập đến một nhân vật khác của Kinh thánh là Samson.  Người hùng Samson bị Dalila mê hoặc  và tước đoạt sức mạnh bằng cách  cắt trụi mái tóc của anh. Bởi lẽ bí mật toàn bộ năng lực của Samson nằm ở bộ tóc. Ở đoạn này, vì một phút yếu lòng trước người đẹp, cả David và Samson sa ngã. Hoàn cảnh của Samson còn tệ hại hơn David. Sau khi bị Dalila bị mê hoặc và phản bội, Samson đã trở thành bất lực.
Đoạn 3 như sau:
Em yêu, anh đã ở đây
ngày trước
Anh đã nhìn thấy căn phòng này
Anh đã từng bước vào nơi đây
Anh từng sống một mình
Thủa chưa gặp em
Anh nhìn thấy lá cờ em
cắm trên vòm cẩm thạch
Nhưng tình yêu đâu phải
là hành khúc chiến thắng
Tình yêu chỉ là một Hallelujah
lạnh buốt và tan nát
Hallelujah …

Đoạn 4:
Đã có một thời 
Em không hề giấu anh
Những gì thực sự diễn ra
thầm kín
Giờ đây, em chẳng còn bộc lộ
cho anh thấy nữa phải không em.
Nhưng, nhớ
khi anh chuyển động trong em
Bồ Câu Thánh thần
cùng chuyển động theo
Mỗi nhịp thở đôi ta
đều là câu Hallelujah
Hallelujah …

Ở đây, tình yêu đã nguội lạnh cho dù cuộc ân ái đã tạo được Phúc Phận (do hình ảnh Bồ câu Thánh cùng chuyển động theo).

Đoạn cuối như sau:
Có thể có Chúa trên trời
Nhưng điều duy nhất 
tôi học được từ tình yêu
Là thanh toán kẻ nào
cao tay hơn mình.
Không phải tiếng khóc
Đang nghe trong đêm tối
Không phải ai đó
Người tìm được ánh sáng
Đó chỉ là một Hallelujah
lạnh buốt và tan nát.
Hallelujah …

Bài ca kết thúc với trải nghiệm cay đắng: Phải hạ gục, thanh toán đối tượng ta đã trót yêu. Leonard Cohen sử dụng động từ “shoot” tức là bắn bỏ. Khi tình yêu đã trở thành cuộc đối đầu lạnh buốt và đầy đổ vỡ. Ở đây, cần nhắc lại hình ảnh “Nàng trói người vào chiếc ghế trong căn bếp”. Căn bếp tại Âu Mỹ tượng trưng cho mái ấm gia đình, nơi mọi người họp mặt. Nhưng ở đây, nó là biểu tượng của một cái bẫy, trong đó người đàn bà đã giam hãm người đàn ông, đã trói buộc ông như một loài gia súc. Trong nhiều bài thơ của Leonard Cohen, căn bếp là đấu trường, nơi diễn ra sự đối kỵ không nguôi giữa đôi nam nữ, như nước với lửa.

Xuyên suốt bài ca Hallelujah là chuỗi liên tưởng chuyển hóa từ truyền thuyết Thánh Kinh đến cảnh đời thường, bồi đắp cho nhau để thính giả chiêm nghiệm được một điều: Tình yêu Thiên Chúa và Tình yêu giữa con người đều chung số phận. Sau thuở ban đầu mơ tưởng về một hợp âm bí mật, một đức tin mãnh liệt, một mối tương đồng thiêng liêng, cuối cùng, chỉ còn một Hallelujah buồn thảm và lạc loài.

Về mặt giai điệu và tiết tấu, bài ca Hallelujah mang sắc thái một bài Kinh cầu, một lời nguyện, nói lên khát vọng về sự hòa hợp giữa nhục dục và tâm linh. Nhiều tôn giáo đã tôn vinh sự hòa hợp này, 
đặc biệt là Ấn Độ giáo, khi sex có khả năng đưa con người đến cõi thần bí. Ở đó, sự viên mãn trong giao hợp cho phép con người thăng hoa, nắm bắt được kích thước Vĩnh Hằng.

Nỗi buồn chuyển tải trong bài ca này cũng chính là sức mạnh của nó, sức quyền rũ đối với thính giả Tây Âu khi nó lay động một mạch tiềm ẩn sâu xa:  Mạch ý thức tội lỗi trong quan hệ nam nữ, hay nói đúng hơn, ý thức về sự thất cơ của con người đánh mất Địa Đàng. Theo Kinh Mạc Khải, người đàn bà đã ăn trái cấm và đưa trái cấm cho chồng. Ăn xong, “họ đã sáng mắt và biết rằng họ trần truồng”.
Một bài ca bền chắc như chiếc xe Volvo
Bài Hallelujah của Leonard Cohen xuất hiện lần đầu năm 1984. Bản thân ca sĩ Leonard Cohen đã trình diễn hai phiên bản khác nhau. Nghe nói đâu, phiên bản chính của bài ca này gồm 15 đoạn chứ không phải năm đoạn như ca sĩ  Jeff Buckley đã trình diễn và được đại đa số nhà phê bình xem là phiên bản xuất sắc nhất. 

Theo những tiết lộ khác nhau của chính tác giả, thì Leonard Cohen đã tốn từ 3 đến 5 năm để hoàn thành tác phẩm này. Năm 1993, tác giả tuyên bố về bài Hallelujah rằng:

“Bản thân tôi cũng không hề ngờ rằng mình phải lao lực khó khăn đến như vậy, cho đến lúc tôi chợt bắt gặp chính mình, mặc quần áo lót, bò lê bò càng trên sàn nhà, trong một căn phòng cũ nát của khách sạn Royalton, trong tình trạng bất lực, không thể kết thúc nổi một vần thơ”

Không gì chữa trị nổi tình yêu
Rất nhiều giai nhân đã đi qua cuộc đời thi sĩ đa tình,nhưng đa sầu đa cảm này. Những người vợ, những người yêu, những cuộc tình ngắn ngủi với các người đẹp tứ xứ, những cuộc gặp gỡ nửa đêm nhân các chuyến trình diễn và ngao du thiên hạ, tất cả đã đến rồi đi, để lại một nỗi trống vắng và ít nhiều xót xa. 

Leonard Cohen vẫn cô đơn như thuở vào năm 1967, anh hát trong bài Bird on a wire:

“Như loài chim đậu trên giây kẽm
Như tên say rượu lạc giữa dàn đồng ca đêm
Tôi tìm Tự Do.”

Trong tình yêu đã đành, anh còn tìm cách chữa trị nỗi hoang mang của mình trong nhà thờ Do thái, hay nhiều năm ròng, trong Đạo Thiền. Thậm chí anh đã cạo đầu đi tu nơi cửa Phật năm 1996.

Năm 2009, khi đã ngoài 70, Leonard Cohen lưu diễn trên toàn thế giới và giành được thành công ngoài sự mong đợi. Như anh đã kết luận: 
“Cuộc đời không thể hoàn hảo, nhưng đổi lại, công việc của mình có thể hoàn thiện.”


TẠP CHÍ ÂM NHẠC FRI
Bảo Thạch
Bài đăng ngày 01/01/2010


[Verse 1] ❤️‍🩹 I've heard there was a secret chord / Nghe kể rằng có một hợp âm bí mật That David played, and it pleased the Lord / Mà David đã chơi và hài lòng Thiên Chúa But you don't really care for music, do ya? / Nhưng em đâu thiết gì đến âm nhạc, phải không? It goes like this, the fourth, the fifth / Này nhé, nó như vậy: Quãng tư, quãng năm The minor fall, the major lift / Điệu thứ trầm, điệu trưởng vút cao The baffled king composing "Hallelujah" / Vì vua thất sủng soạn bài Hallelujah…
[Verse 2] ❤️‍🩹 Your faith was strong / Lòng tin của người mạnh mẽ but you needed proof / nhưng người vẫn cứ cần bằng chứng You saw her bathing on the roof / Người nhìn thấy nàng tắm trên mái hiên Her beauty in the moonlight / Sắc đẹp của nàng dưới ánh trăng overthrew ya / đã làm người gục ngã She tied you to a kitchen chair / Nàng trói người vào chiếc ghế trong căn bếp She broke your throne /. Nàng đập vỡ ngai vàng của người and she cut your hair / Nàng cắt tóc người And from your lips she drew the Hallelujah /nàng giành lấy câu Hallelujah Hallelujah
[Verse 3] ❤️‍🩹 Baby, I've been here before / Em yêu, anh đã ở đây ngày trước I know this room / Anh đã nhìn thấy căn phòng này I've walked this floor / Anh đã từng bước vào nơi đây I used to live alone before I knew you / Anh từng sống một mình thuở chưa gặp em And I've seen your flag on the marble arch / Anh nhìn thấy lá cờ em cắm trên vòm cẩm thạch Love is not a victory march / Nhưng tình yêu đâu phải là hành khúc chiến thắng It's a cold and it's a broken Hallelujah / Tình yêu chỉ là một Hallelujah lạnh buốt và tan nát
[Verse 4] ❤️‍🩹 There was a time you let me know / Đã có một thời Em không hề giấu anh What's really going on below / Những gì thực sự diễn ra thầm kín But now you never / Giờ đây, em chẳng còn show it to me, do you? / bộc lộ cho anh thấy nữa phải không em? And remember when I moved in you / Và nhớ khi anh chuyển động trong em The holy dove was moving too / Bồ Câu Thánh thần cùng chuyển động theo And every breath we drew was Hallelujah / Mỗi nhịp thở đôi ta đều là câu Hallelujah
[Verse 5] ❤️‍🩹 Maybe there's a God above / Có thể có Chúa trên trời But all I've ever learned from love / Nhưng điều duy nhất tôi học được từ tình yêu Was how to shoot / Là thanh toán at someone who outdrew you / kẻ nào cao tay hơn mình. And it's not a cry that you hear at night / Không phải tiếng khóc đang nghe trong đêm tối It's not somebody who's seen the light / Không phải ai đó người tìm được ánh sáng It's a cold and it's a broken Hallelujah / Đó chỉ là một Hallelujah lạnh buốt và tan nát.

Nhận xét